Kỷ niệm 78 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22/12/1944 – 22/12/2022): Không ngừng giữ vững và phát huy bản chất cách mạng của “bộ đội Cụ Hồ”
Cách đây 78 năm, ngày 22/12/1944, tại khu rừng Trần Hưng Đạo, xã Tam Kim, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân được thành lập gồm 34 chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu đội, do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
1. Cùng với hệ thống chỉ huy, Chi bộ đảng cũng thành lập để lãnh đạo Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân thực hiện các nhiệm vụ một cách tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt; tuy chỉ có 34 người, với 34 khẩu súng các loại nhưng đó là những chiến sĩ kiên quyết, dũng cảm trong các đội du kích Cao – Bắc – Lạng, Cứu quốc quân,… họ là con em các tầng lớp nhân dân bị áp bức, có lòng yêu nước, chí căm thù địch rất cao, họ đã siết chặt thành một khối vững chắc. Sau lễ thành lập, Đội tổ chức một bữa cơm nhạt không rau, không muối để nêu cao tinh thần gian khổ của các chiến sĩ cách mạng; tổ chức “đêm du kích” liên hoan với đồng bào địa phương để thắt chặt tình đoàn kết quân dân. Nhờ vậy, từ trận đầu, quân đội ta đã mưu trí, dũng cảm chiến đấu, lập nên chiến công tiêu diệt các đồn Phay Khắt, Nà Ngần của giặc Pháp, mở ra truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng”, đánh chắc thắng; để rồi ngày càng phát triển, lớn mạnh nhanh chóng, cùng toàn dân tiến hành cuộc khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 thành công, Việt Nam Giải phóng quân được đổi tên thành Vệ Quốc quân; năm 1946, đổi tên thành Quân đội Quốc gia Việt Nam; năm 1950, đổi tên thành Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân Quân dội nhân dân Việt Nam
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trường kỳ, gian khổ; với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân đội ta đã thắng lợi vang dội, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Tiếp theo là cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, quân đội ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh và lập nên nhiều chiến công nối tiếp chiến công, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên đại thắng mùa Xuân năm 1975 lịch sử, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh, hoàn thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Sau giải phóng, quân đội ta tiếp tục thực hiện hai cuộc chiến tranh chống quân xâm lược ở biên giới phía Bắc và phía Tây Nam của đất nước, bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc thân yêu, giúp nước bạn Cam-pu-chia giải phóng khỏi nạn diệt chủng Khơ me đỏ. Bước vào thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quân đội ta luôn hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước giao; không ngừng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại; rèn luyện kỷ luật, khả năng sẵn sàng chiến đấu, không để bị động, bất ngờ trước mọi tình huống.
Hình ảnh 34 đội viên đầu tiên của Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
2. Lịch sử 78 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của quân đội ta gắn liền với lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc. Một đội quân được Đảng và Bác Hồ rèn luyện, đã từng là những đội tự vệ đỏ trong cao trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh, đội du kích Bắc Sơn, Nam Kỳ, Ba Tơ, Cao Bắc Lạng, Cứu quốc quân đến Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Một đội quân lớp lớp cán bộ, chiến sĩ đã nối tiếp nhau bao thế hệ cầm súng chiến đấu, cùng toàn dân đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược hung bạo, giành lại độc lập thống nhất và bảo vệ vững chắc bờ cõi thiêng liêng Tổ quốc Việt Nam và làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang đối với cách mạng hai nước Lào và Cam-pu-chia anh em.
3. Quân đội nhân dân Việt Nam đã và đang từng bước hiện đại và là một trong 20 nước có tiềm lực quốc phòng mạnh nhất thế giới.
Lực lượng quân đội Việt Nam luôn có mặt trong công cuộc xây dựng kinh tế, thực hiện tốt chức năng làm nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh để góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định, phát triển nước nhà.
Vào ngày 22 tháng 12 hằng năm, toàn dân Việt Nam sẽ tổ chức lễ kỷ niệm với hàng loạt hoạt động về chủ đề quốc phòng và quân đội. Những hoạt động diễn ra trong ngày lễ này có thể là mít tinh, hội thảo, biểu diễn văn nghệ, thi đấu thể thao, hội thao quân sự,… và được tổ chức ở khắp làng, xã, phường; các cơ quan đoàn thể,…
Những hoạt động trong ngày lễ này nhằm tuyên truyền sâu rộng truyền thống yêu nước, dựng nước, giữ nước của dân tộc ta; giúp giáo dục phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ; khích lệ, động viên mỗi công dân củng cố quốc phòng, góp phần xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc.
Bên cạnh đó, những hoạt động kỷ niệm trong ngày Quân đội nhân dân Việt Nam còn động viên cán bộ, chiến sĩ không ngừng nâng cao cảnh giác, luôn luôn ra sức rèn luyện bản lĩnh chính trị, trình độ quân sự, vượt qua khó khăn, trong mọi hoàn cảnh để hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Danh sách 34 đội viên đầu tiên
STT | Tên | Bí danh | Dân tộc | Quê quán |
1 | Trần Văn Kỳ | Hoàng Sâm | Kinh | Tuyên Hoá, Quảng Bình |
2 | Dương Mạc Thạch | Xích Thắng | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
3 | Hoàng Văn Xiêm | Hoàng Văn Thái | Kinh | Tiền Hải, Thái Bình |
4 | Hoàng Thế An | Thế Hậu | Tày | Hà Quảng, Cao Bằng |
5 | Bế Bằng | Kim Anh | Tày | Hoà An, Cao Bằng |
6 | Nông Văn Bát | Đàm Quốc Chưng | Tày | Hoà An, Cao Bằng |
7 | Bế Văn Bồn | Bế Văn Sắt | Tày | Hoà An, Cao Bằng |
8 | Tô Văn Cắm | Tiến Lực | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
9 | Nguyễn Văn Càng | Thu Sơn | Tày | Hoà An, Cao Bằng |
10 | Nguyễn Văn Cơ | Đức Cường | Kinh | Hoà An, Cao Bằng |
11 | Trần Văn Cù | Trương Đắc | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
12 | Hoàng Văn Củn | Quyền, Thịnh | Tày | Võ Nhai, Thái Nguyên |
13 | Võ Văn Dảnh | Luân | Kinh | Tuyên Hoá, Quảng Bình |
14 | Tô Vũ Dậu | Thịnh Nguyên | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
15 | Dương Văn Dấu | Đại Long | Nùng | dien hai |
16 | Chu Văn Đế | Nam | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
17 | Nông Văn Kiếm | Liên | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
18 | Đinh Văn Kính | Đinh Trung Lương | Tày | Thạch An, Cao Bằng |
19 | Hà Hưng Long | Tày | Hoà An, Cao Bằng | |
20 | Lộc Văn Lùng | Văn Tiên | Tày | Cao Lộc, Lạng Sơn |
21 | Hoàng Văn Lường | Kính Phát | Nùng | Ngân Sơn, Bắc Kạn |
22 | Hầu A Lý | Hồng Cô | Mông | Nguyên Bình, Cao Bằng |
23 | Long Văn Mần | Ngọc Trình | Nùng | Hoà An, Cao Bằng |
24 | Bế Ích Nhân | Bế Ích Vạn | Tày | Ngân Sơn, Bắc Kạn |
25 | Lâm Cẩm Như | Lâm Kính | Kinh | Thạch An, Cao Bằng |
26 | Hoàng Văn Nhủng | Xuân Trường | Tày | Hà Quảng, Cao Bằng |
27 | Hoàng Văn Minh | Thái Sơn | Nùng | Ngân Sơn, Bắc Kạn |
28 | Giáp Ngọc Páng | Nông Văn Bê | Nùng | Hoà An, Cao Bằng |
29 | Nguyễn Văn Phán | Kế Hoạch | Tày | Hoà An, Cao Bằng |
30 | Ma Văn Phiêu | Bắc Hợp | Tày | Nguyên Bình, Cao Bằng |
31 | Đặng Tuần Quý | Dao | Nguyên Bình, Cao Bằng | |
32 | Lương Quý Sâm | Lương Văn Ích | Nùng | Hà Quảng, Cao Bằng |
33 | Hoàng Văn Súng | La Thanh | Nùng | Hà Quảng, Cao Bằng |
34 | Mông Văn Vẩy | Mông Phúc Thơ | Nùng | Võ Nhai, Thái Nguyên |
Nguồn: Hoạnguyen220619.netc